Raphael tên đầy đủ là Raffaello Sanzio da Urbino (1483 – 1520), là một họa sĩ nổi tiếng người Ý, được ngưỡng mộ bởi những bức tranh nghệ thuật đẹp, tinh tế và duyên dáng. Sự hoàn hảo về hình thức và kỹ thuật của ông được coi là một lý tưởng cho các họa sĩ khác, được gọi là “Hoàng tử của các họa sĩ”. Ông cũng được chú ý bởi khả năng truyền tải sự hùng vĩ, vẻ đẹp và sự hoàn hảo. Cùng với Michelangelo và Leonardo da Vinci, Raphael tạo nên bộ ba vĩ đại của thời kỳ Phục hưng.
“Khi một người đang vẽ, người ta không suy nghĩ.”
Danh Hoạ Raphael – Tiểu Sử Cuộc Đời
Raphael sinh năm 1483, tại thành phố Urbino, vùng Marches của Ý. Cha ông là một họa sĩ tòa án và ông đã tiếp bước cha của mình, giúp đỡ công việc cha tại tòa án. Ông cũng đạt được thành tựu giáo dục lớn về nghệ thuật, văn học và các kỹ năng xã hội. Năm 11 tuổi, ông mồ côi và người giám hộ chính thức của ông thành Bartolomeo, một linh mục Khoảng năm 1500, ở tuổi 17, anh học nghề tại xưởng của họa sĩ Pietro Perugino. Ông rất giỏi trong việc học các kỹ thuật vẽ tranh mới và khả năng kỹ thuật tuyệt vời của ông có thể sớm tái tạo các bức tranh của ông chủ mình. Tài năng của Raphael nhanh chóng được lan rộng.
Đến năm 1501, Raphael được đánh giá cao và ông đã đạt được những thành tựu quan trọng, chẳng hạn như Mond de Crucifixion năm 1503. Từ khoảng năm 1504, Raphael chủ yếu sống ở Florence, một trung tâm đang phát triển của thời kỳ Phục hưng. Ông đã làm quen với Leonardo da Vinci và Michelangelo. Ông được truyền cảm hứng từ nghệ thuật vẽ tranh của họ và nhanh chóng học hỏi bất kỳ kỹ thuật và phong cách mới nào. Ví dụ, ông thường bắt chước phong cách vẽ các hình của Da Vinci theo hình tam giác.
Sự Nghiệp của Raphael
Raphael đã trở thành họa sĩ nổi tiếng tại Tòa án Medici, nhưng vào năm 1508, Giáo hoàng Julius II đã triệu tập ông đến Vatican và trao cho ông những công việc quan trọng. Giáo hoàng Julius II mong muốn chứng kiến một sự phục hưng nghệ thuật và tái tạo sự uy tín của La Mã cổ đại. Đó là một sự kết hợp tình cờ – sự bảo trợ của Giáo hoàng và các nghệ sĩ thời kỳ Phục hưng cao, chẳng hạn như Raphael. Giáo hoàng yêu cầu Raphael trang trí một căn phòng trong dinh thự của mình bằng những bức bích họa. Giáo hoàng rất ấn tượng với tác phẩm nghệ thuật của Raphael đến nỗi ông đã cho dỡ bỏ các bức bích họa khác để có thêm không gian cho Raphael.
Raphael đã vẽ những nhân vật trong Kinh thánh và cả những nhân vật thời cổ đại, chẳng hạn như bức tranh nghệ thuật nổi tiếng Trường học Athens, mô tả Plato, Aristotle và các triết gia khác. Nó được coi là cống nạp cho nền văn hóa Hy Lạp cổ đại. Ông thậm chí còn tạo cho nó một nét đương đại bằng cách tự vẽ mình ở một góc.
Nhiệm vụ của Raphael được thực hiện cùng thời điểm với Michelangelo vẽ Nhà nguyện Sistine, và mặc dù nhà nguyện Sistine làm lu mờ tác phẩm của Raphael, những bức tranh của ông vẫn được coi là một trong những tác phẩm tranh nghệ thuật châu Âu đẹp nhất. Ngoài ra, Raphael được cho là đã lẻn vào Nhà nguyện Sistine và tạo ra ấn tượng về tác phẩm của Michelangelo. Những tác phẩm này rất nổi tiếng, mang lại cái nhìn sâu sắc về các kiệt tác của Michelangelo và tài năng tái tạo những gì ông đã thấy của Raphael.
Ngay cả khi làm việc cho Giáo hoàng, ông cũng dành thời gian cho các công việc khác, chẳng hạn như chủ ngân hàng Agostino Chigi. Raphael cũng quan tâm đến kiến trúc và chữ khắc của Rome từ thời cổ đại. Năm 1515, ông được trao quyền hợp pháp để giám sát việc khai thác đá cổ. Raphael muốn đảm bảo rằng những chữ khắc cổ được bảo tồn trước khi viên đá được tái sử dụng. Không may Raphael ra đi sớm nên ông không bao giờ có thể hoàn thành một bản đồ khảo cổ của thành phố.
Tính Cách của Raphael
Raphael được chú ý bởi sự quyến rũ tự nhiên, sự vui vẻ và phong cách quý ông. So với Michelangelo, ông thoải mái hơn nhiều trong các quan hệ xã hội, ông không có sự thô lỗ như cách khiến Michelangelo gặp rắc rối. Ông có thể điều hành một xưởng lớn mà không có bất hòa – những người đồng nghiệp ghi nhận khả năng của ông trong việc giải quyết những hiểu lầm và tranh cãi giữa họa sĩ và khách hàng quen. Sự kết hợp giữa kỹ năng chính trị, xã hội và nghệ thuật là một sự kết hợp hiếm có.
Nét Vẽ Của Raphael
Raphael đôi khi không tránh khỏi việc bị so sánh với Da Vinci và Michelangelo – hai trong số những nghệ sĩ tài năng nhất trong lịch sử, nhưng ông là một nhân vật có ảnh hưởng theo đúng nghĩa của mình. Ông có thể không có thiên phú sáng tạo như vậy, nhưng Raphael có duyên hội họa và cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Ông tập trung vào cách giải thích cổ điển hơn về sự hoàn hảo nhưng vẫn bị ảnh hưởng phần nào bởi truyền thống Florence đương đại. Ông được biết đến vì đã sử dụng kỹ thuật vẽ thô các bức tranh nghệ thuật của mình trước khi bắt đầu vẽ đúng cách. Ông đã sử dụng những bản vẽ này để nghiên cứu về bố cục và hình thức. Ông có thể nghĩ ra vài nét vẽ cho mỗi bức tranh, thể hiện các cách tiếp cận khác nhau đối với cùng một chủ đề. Ngoài vai trò là một họa sĩ, ông còn là một kiến trúc sư nổi tiếng, người vẽ tranh, và cùng với Raimondi là thợ in các bản khắc của ông.
Giáo Viên Raphael & Gia tài của Ông
Ngoài việc là một họa sĩ vĩ đại, Raphael còn là một giáo viên nổi tiếng, người có thể truyền cảm hứng cho các học sinh của mình đến những tiêu chuẩn cao hơn. Ông có một trong những trường nghệ thuật lớn nhất ở Rome, với hơn năm mươi học sinh. Sự nhiệt tình và tài năng của ông đã giúp trường học của ông trở thành một địa điểm nghệ thuật nổi tiếng. Sức mạnh của trường học của ông cũng giúp phong cách vẽ tranh nghệ thuật được đánh giá cao trên khắp nước Ý. Trong nhiều năm, phong cách của ông về hình thức hoàn hảo và sự cân bằng đã được giảng dạy trong các học viện nghệ thuật lớn. Tiểu sử Vasari nói về Raphael rằng:
“Những người sở hữu những món quà quý hiếm và nhiều như Rafaello da Urbino, không chỉ đơn thuần là đàn ông, mà là những vị thần phàm trần.”
Đời Sống Cá Nhân Của Raphael
Raphael chưa bao giờ kết hôn mặc dù đã có một số cuộc tình. Vasari tuyên bố: “Anh ấy (Raphael) là một người rất đa tình, rất thích phụ nữ và luôn sẵn sàng phục vụ họ.” Năm 1514, ông đính hôn với Maria Bibbiena – cháu gái của một Hồng y, mặc dù ông có vẻ mất hứng thú và không bao giờ kết hôn. Tài chính của ông được đản bảo nhờ tiền hoa hồng từ các bức vẽ nghệ thuật và thu nhập từ việc là con rể của Giáo hoàng, vị trí đó đã mang lại cho ông địa vị đáng kể.
Ông qua đời vào ngày 6 tháng 4 năm 1570, ở tuổi chỉ 37 (mặc dù một số người cho rằng ông qua đời ở tuổi 33 hoặc 34). Ông qua đời sau một cơn bạo bệnh cấp tính. Không rõ nguyên nhân cái chết, mặc dù Vasari gợi ý rằng đó là do “quá yêu.”
Trước khi chết Ông là một tín đồ Công giáo La Mã, ông đã có thể xưng tội và nhận các nghi thức cuối cùng.
Ông đã để lại một di sản đáng kể và được tổ chức ngay cả khi còn sống, hàng nghìn người đã đến dự đám tang của ông. Ông được chôn cất tại Điện Pantheon – nơi có dòng chữ trên lăng mộ của ông:
“Ở đây nói dối rằng Raphael nổi tiếng về Thiên nhiên, sợ bị chinh phục khi ông còn sống, và khi ông chết sợ chính mình chết.”
Các Tác Phẩm Của Raphael
Raphael đã vẽ rất nhiều các bức tranh tôn giáo
Madonna in the Meadow – Madonna trên đồng cỏ
Đây là một ví dụ điển hình về nghệ thuật của Raphael. Bố cục sử dụng kỹ thuật vẽ các nhân vật của Da Vinci sử dụng hình tam giác làm nền. Raphael cũng vẽ nhiều hình ảnh dịu dàng và nhân ái về Madona. Ông truyền vào bức tranh sự duyên dáng, dịu dàng và thanh thoát. Một sự tương phản với thời kỳ chính trị hỗn loạn của thời Phục hưng.
The Entombment – Sự Chôn Cất
Nhiệm vụ được đưa ra bởi Atalanta Baglioni, người con trai của người đã bị giết trong các cuộc giao tranh bè phái. Raphael đã làm việc trên nó trong hai năm, vẽ phác thảo chuẩn bị cho các con số trước khi anh ấy hài lòng. Bức tranh thể hiện cả nỗi đau đớn của cái chết và sự lo lắng của những người thân cận với Chúa Kitô khi họ vác xác của Người từ thập giá đến mộ của Người. Giogio Vasari viết về bức tranh này.
“Trong bức tranh thần thánh nhất này Chúa Kitô khi Chết được sinh ra trong Mộ, được xử tử với sự tươi tắn và chăm sóc yêu thương đến mức khi nhìn bằng mắt có vẻ như chỉ mới được vẽ”.