Khi nhắc đến hội họa Việt Nam, chắc hẳn ai cũng nghĩ ngay đến nghệ thuật tranh sơn mài. Hai danh họa tài hoa Nguyễn Gia Trí và Phạm Hậu là một trong những người đầu tiên đã tìm tòi và khám phá nét đẹp tiềm ẩn của tranh sơn mài với sự kết hợp những nguyên tắc vẽ của phương Tây để tạo nên một phong cách, trường phái của hội họa Việt Nam đầu thế kỷ XX. Và chính sự chuyển mình đột phá này đã đưa tranh sơn mài và tên tuổi của các danh họa Việt Nam là những trụ cột đầu tiên của nền Mỹ thuật Việt Nam đương đại.
Tranh Sơn Mài Là Gì? Định Nghĩa Nghệ Thuật Tranh Sơn Mài
Sơn Mài Là Gì?
Chất liệu hội họa được các họa sĩ trên Thế giới sử dụng nhiều nhất để phác họa lên tác phẩm nghệ thuật của họ chính là chất liệu sơn mài. Ở Việt Nam, sơn mài là thành quả vĩ đại của sự tìm tòi phát triển của nghề sơn thủ công truyền thống. Đầu thập niên 1930, các họa sĩ Việt Nam tại trường Mỹ Thuật Đông Dương đã phát hiện ra các vật liệu màu từ các vật liệu hết sức gần gũi và thân thuộc như vỏ ốc, trứng, tre…sau đó họ đã áp dụng kỹ thuật sơn mài vốn có để tạo thành những kiệt tác tranh sơn mài vô cùng tinh tế. Và chính từ đó, khái niệm sơn mài cũng dần dần phổ biến và ngày càng được nhiều người biết đến.
Tranh Sơn Mài Là Gì?
Theo dòng lịch sử dài vô tận của Việt Nam, những vết tích và định nghĩa về sơn mài được tìm cách đây hàng trăm năm Trước Công Nguyên. Nhân dân ta từ xa xưa đã dùng mủ cây sơn để trét thuyền; rồi qua các triều đại Lê, Lý, Trần còn giữ được rất nhiều cổ vật, pho tượng gỗ hay đất đều được sơn son thếp vàng.
Từ thời điểm mà các họa sĩ Việt Nam đưa vật liệu màu mới này vào sử dụng thì nghệ thuật tranh sơn mài Việt Nam mới chính thức được phát triển mạnh mẽ. Tranh sơn mài có thể định nghĩa là loại tranh sử dụng các vật liệu truyền thống trong kĩ thuật sơn mài như: sơn then, bạc thếp, vàng thếp, sơn cánh gián làm chất kết dính, cùng các loại son, vỏ trai…để vẽ trên nền vóc màu đen.
Một bức tranh sơn mài hoàn mĩ được tạo ra là tất cả nỗ lực, kiên trì và bằng tình yêu , đam mê nghệ thuật của các họa sĩ vì thông thường để làm nên một bức tranh sơn mài mất khoảng 6 tháng. Tuy nhiên, giá trị của bức tranh cũng tồn tại rất lâu cùng thời gian nếu người chơi tranh là người biết giữu gìn và nâng niu.
Giá Trị Lịch Sử Của Tranh Sơn Mài
Người châu Á đã biết về các kỹ thuật sử dụng nhựa sơn mài từ rất sớm. Người Trung Quốc dưới triều đại nhà Thương đã sử dụng sơn mài để trang trí các đồ vật đơn giản làm từ tre và gỗ vì độ bền của nó đã nâng cao giá trị sử dụng của những đồ vật này. Sơn mài cũng như kết hợp hoàn hảo giữa inlay và khắc. Trong nhiều triều đại phong kiến, sơn mài đã đáp ứng nhu cầu trang trí bằng cách làm nổi bật các họa tiết trang trí cung điện của các vị vua, lãnh chúa và quý tộc, cũng như các yếu tố kiến trúc, vũ khí, xe ngựa, nhạc cụ, và hộp đựng và chai lọ. Do đó theo thời gian các chức năng nghệ thuật của sơn mài ngày càng được công nhận. Ở Nhật Bản, mặc dù sơn mài được sử dụng sớm nhất là vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, nhưng nó bị giới hạn trong các vật dụng sử dụng hàng ngày như đồ sành sứ hoặc dụng cụ để pha trà. Mãi đến thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên, người Nhật, cùng với người Hàn Quốc, đã liên hệ với thương mại sơn mài của lục địa châu Á. Họ đã được tiếp xúc với các kỹ thuật inlay, khắc, tạo hình và trang trí khác nhau với các kỹ thuật cơ bản để tạo ra các bức tranh như vẽ trên máy bay, đánh bóng, đánh bóng và chạm nổi. Sơn mài Nhật Bản đạt đến đỉnh cao của sự phát triển của nó; ảnh hưởng của nó đã vượt xa biên giới đất nước và lan sang các nước châu Âu.
Ở Việt Nam, sơn mài cũng có truyền thống lâu đời. Hơn 2.000 năm trước, trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn, người Việt đã biết cách chế biến sơn mài thô để làm ra những thứ hữu ích. Nhiều đồ vật trong gia đình và giáo phái được trang trí bằng hình ảnh và sau đó phủ sơn mài. Chúng được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ được phát hiện ở đây và ở miền bắc Việt Nam. Từ thời nhà Ly (thế kỷ 11) hoặc thậm chí sớm hơn, sơn mài đã được sử dụng rộng rãi trong trang trí các cung điện, hội trường xã, đền thờ, chùa và đền thờ. Bí quyết liên quan đến nghề này luôn được giữ bí mật và lưu truyền trong bộ tộc nghệ nhân, từ cha cho đến trẻ em. Bàn tay bậc thầy xuất sắc đã được Nhà vua trao tặng và nhận danh hiệu. Nhu cầu chuyên môn hóa ngày càng tăng chắc chắn đã dẫn đến việc thành lập bang hội. Một bang hội như vậy đã xuất sắc trong việc xử lý sơn mài trong khi những người khác nổi bật trong việc mạ vàng hoặc sản xuất bột miến. Họ đã cùng nhau sản xuất đồ sơn mài trong một khu vực đặc biệt dọc theo một con đường nổi tiếng được đặt theo tên của nghề này.
Ngày nay, tại Hà Nội và một số khu vực lân cận, vẫn còn nhiều đường phố, khu phố và làng mạc, vẫn bảo tồn sản phẩm sơn mài truyền thống này. Các vật thể làm từ tre, gỗ, vải, đất hoặc da, khi đã được phủ sơn mài để bảo vệ và tôn tạo, sẽ có độ bóng, bền và kín nước. Để chứng minh cho điều này, có những vật thể sơn mài được phát hiện gần đây trên những chiếc thuyền bị chìm thuộc về chúa Nguyễn ở miền Nam Việt Nam; chúng được tìm thấy nguyên vẹn mặc dù thực tế là chúng đã được ngâm trong nước muối hơn 100 năm. Đó là lý do tại sao sơn mài được sử dụng rất rộng rãi để trang trí trong nghệ thuật và thủ công và công nghiệp.
Trong nhiều thế kỷ, các đồ vật được sơn mài của Việt Nam nổi bật bởi tính nguyên bản và chất lượng cao khi tiếp xúc với các sản phẩm tương tự ở các nước láng giềng – Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và Miến Điện. Nó có mặt ở khắp mọi nơi tại Việt Nam – từ các liên kết trong các tấm ván của ngư dân, thuyền và đồ gia dụng của nông dân, cho đến các sản phẩm thủ công và nghệ thuật tinh xảo như đồ vật mạ vàng xa hoa và đồ khảm xà cừ trong đồ nội thất. Tuy nhiên, gu thẩm mỹ của người dân trong cuộc sống hàng ngày, vẫn bị hạn chế trong việc trang trí các vật dụng gia đình và đồ vật thờ cúng, như tượng tôn giáo.
Việc thành lập Ecole Superieure des Beaux-Arts d’Indochine đã tạo động lực mạnh mẽ cho sự ra đời của một hình thức hội họa mới được khuyến khích bởi hai họa sĩ người Pháp: Victor Tardieu (1870 – 1937) và cộng sự Joseph Inguimberty ( 1896 – 1917). Sự tiếp xúc với hội họa cổ điển châu Âu đã khiến mỹ thuật Việt Nam trải qua những thay đổi triệt để. Tuy nhiên, những thay đổi này – bao gồm biểu hiện ba chiều trên một mặt phẳng và mô tả trực quan của thực tế – đã được chấp nhận và kết hợp vào các chủ đề và kỹ thuật truyền thống của nghề sơn mài.
Được truyền cảm hứng bởi những âm điệu phi thường và nguồn tài nguyên tiềm ẩn của sơn mài đen huyền thoại trong các ngôi nhà và chùa, hai nghệ sĩ người Pháp đã thúc giục sinh viên nghệ thuật Việt Nam để khám phá nghệ thuật sơn mài này. Sự khích lệ của họ đã đánh thức niềm tự hào dân tộc sau này và điều này dẫn đến sự ra đời của tranh sơn mài, nó thực sự là một đóng góp to lớn cho mỹ thuật Việt Nam. Các nghệ sĩ Trần Văn Cạn, Phạm Hậu và Nguyễn Gia Trí đã đi tiên phong trong việc phát triển kỹ thuật sơn mài, từ trang trí đơn giản các họa tiết kiến trúc trong nhà rông và đền thờ hoặc các sản phẩm thủ công đến các bản vẽ nghệ thuật của tranh sơn mài hiện đại. Họ đã sáng tác các tác phẩm nghệ thuật một cách say mê, áp dụng các bí quyết truyền thống của nghề sơn mài trong khi thử nghiệm các kỹ thuật mới. Mục tiêu của họ là ứng dụng một cách linh hoạt các quy luật không gian và phối cảnh liên quan đến bố cục, hình dạng và hình vẽ và đồng thời để bảo tồn đặc tính vốn có khác của nghệ thuật sơn mài.
Các Đặc Điểm Nổi Bật Của Nghệ Thuật Tranh Sơn Mài
Về cơ bản, tranh sơn mài kết hợp các màu truyền thống – nâu, đen, đỏ, vàng, trắng – và kỹ thuật khảm vỏ trứng, cua và vỏ ốc. Những đổi mới trong nghệ thuật này bao gồm các kỹ thuật pha trộn thuốc nhuộm, bổ sung các tông màu xanh lá cây khác nhau để làm phong phú cách phối màu, sử dụng bóng râm, ánh sáng khác với một loạt các tông màu khác nhau, và áp dụng phương pháp đá bọt và đánh bóng. Các chủ đề hiện thực được miêu tả trong rất nhiều tác phẩm qua từng giai đoạn lịch sử đã khẳng định một cách thuyết phục các nguồn tài nguyên biểu cảm, vô tận của nghệ thuật sơn mài.
Các Lưu Ý Khi Sử Dụng Kĩ Thuật Sơn Mài
Không phải ai cũng có thể tiếp xúc với mủ cây sơn để làm tranh sơn mài này vì nó có thể gây sưng và nổi mẩn ngứa, đặc biệt là trên mặt. Nếu bị trường hợp như trên nó sẽ kéo trong vài tuần Tuy nhiên, bạn có thể điều trị bằng cách nghiền nát lá carambola tươi và chà xát lên vùng da ngứa. Khi sử dụng kĩ thuật sơn mài, bạn phải tuyệt đối chú ý vì cách xử lý khó khăn: nó sẽ nhăn, khô và sẫm màu ngay lập tức khi tiếp xúc trực tiếp với nước, gió và ánh sáng mặt trời. Người trồng sơn mài chỉ có thể có được nó từ nửa đêm đến rạng sáng. Do đó, nhựa được thu thập được chứa trong các thùng tre lớn được đậy kín bằng cách dán giấy sáp lên bề mặt của chúng để làm cho kín không khí. Các thùng chứa sơn mài sau đó được để vài tháng ở một nơi thoáng mát và tối cho đến khi các chất liệu của sơn mài lắng xuống thành ba lớp chính. Lớp trên cùng là sơn mài của tầng thứ nhất (sơn mài màu nâu đỏ); Nó ít dính nhất, màu nâu vàng. Nhựa sau đó được lọc để loại bỏ hoàn toàn tất cả các tạp chất, cho vào lọ đất nung hoặc lọ gốm, và khuấy liên tục và đều bằng que tre hoặc gỗ trong vài giờ để thoát hơi. Lớp tiếp theo là sơn mài của tầng thứ hai. Lớp này dính hơn và có màu nâu vàng đậm hơn. Người dùng nên sử dụng thùng sắt. Người ta phải khuấy nhựa bằng một thanh sắt trong vài giờ để có được một sơn mài đen, bóng được gọi là sơn mài. Tầng dưới cùng rất dính và mềm, có màu vàng bùn. Nó cứng lại khi khô và một tác phẩm làm từ kĩ thuật sơn mài được ra đời.
Các Nguyên Liệu Sử Dụng Vẽ Tranh Sơn Mài Phổ Biến
Một tác phẩm tranh sơn mài đẹp và hoàn chỉnh cần đến rất nhiều các loại nguyên liệu khác nhau và phổ biến nhất là sơn và màu. Mủ nhựa được trích từ vỏ của cây sơn là chất liệu chính để làm sơn mài . Mủ nhựa của cây sơn có độ dính cao và rất bền chắc, chịu được nước mưa, nước mặn,và độ ẩm cao. Những chất liệu được sử dụng phổ biến để vẽ tranh sơn mài bao gồm :
Sơn: Lấy từ cây sơn, ngoài ra còn dùng dầu trẩu, dầu trám, nhựa thông và nhựa dó.
Màu: sơn mài truyền thống dùng 2 màu cơ bản là cánh gián đen và đỏ, loại màu chế từ khoáng chất vô cơ nên không bị phân huỷ trước ánh sáng và thời gian.
Các sản phẩm từ bạc như bạc thếp, bạc dán, bạc xay, bạc dầm.
Các sản phẩm từ vàng như vàng thếp.
Các vật liệu khác: vỏ trứng, vỏ trai, vỏ ốc, bột điệp.
Với sự phát triển mạnh của tranh sơn mài như hiện nay, đòi hỏi các kỹ thuật và chất liệu sử dụng làm tranh cũng liên tục phát triển và thay đổi. Hiện tại xu hướng sử dụng nguyên liệu là sơn Nhật được dùng khá phổ biến, bởi vì, sơn ta có hạn chế là dễ gây tác động phụ cho người sử dụng và ngoài ra, khi dùng sơn ta, tranh lại phụ thuộc vào thời tiết khá nhiều. Tuy nhiên chất liệu sơn ta vẫn rất được ưa chuộng bởi khi ngắm tranh nó tạo độ sâu cho bức tranh hơn.
Nhìn chung, kĩ thuật sơn mài chỉ theo một nguyên tắc chung gồm ba công đoạn chính: bó hom vóc, trang trí, mài và đánh bóng. Nhưng có điểm khác biệt khá lớn trong kinh nghiệm, kỹ thuật của từng cá nhân, từng gia đình. Ngoài ra sơn mài cũng được biến đổi trong kỹ thuật để phục vụ cho các mục đích khác nhau như , làm trang trí đồ vật, sơn phủ hoàng kim, làm tranh, làm tượng…
Ngày nay, cho dù hội họa của Việt Nam và Thế giới đã có những thay đổi nhất định trong dòng tranh nghệ thuật nhưng nghệ thuật sơn mài vẫn đang tiếp tục kế thừa và phát triển với nhiều lối sáng tác và tìm tòi mới mẻ mang đậm dấu ấn và tính sáng tạo, đặc trưng của mỗi người nghệ nhân. Nét đẹp truyền thống của nghệ thuật tranh sơn mài là vĩnh viễn bất biến không gì thay đổi được trong giới hội họa nghệ thuật.