Tiểu Sử Cuộc Đời – Hoạ Sĩ Lương Xuân Nhị
Lương Xuân Nhị (10/04/ 1914 – 25/05/2006) là giáo sư, nhà giáo nhân dân và họa sĩ Việt Nam nổi tiếng với những bức tranh chân dung thiếu nữ và tranh phong cảnh, sinh hoạt mang vẻ đẹp bình dị, đằm thắm thể hiện tâm hồn Việt độc đáo. Là một trong những sinh viên tốt nghiệp đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, nay là Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1932-1937), họa sĩ Lương Xuân Nhị đã giúp đưa nghệ thuật tranh sơn dầu phương Tây đến Việt Nam bằng cách sử dụng sơn dầu và lụa để sử dụng vào trong các tác phẩm của mình với tinh thần phương Đông duyên dáng. Ông đã đi nhiều nơi qua Đức, Nhật Bản, Algeria, Liên Xô và các nơi khác để thu thập những ấn tượng về phong cảnh và con người, đặc biệt là những người phụ nữ mà ông nhìn thấy.
Sự Nghiệp Của Hoạ Sĩ Lương Xuân Nhị
Năm 1937, bức tranh Cô gái bán đồ uống của họa sĩ Lương Xuân Nhị được trưng bày ở Paris, và vào năm 1942, bức tranh nghệ thuật nổi tiếng Cô gái và hoa sen của ông đã được bán khi lần đầu tiên được trưng bày. Các tác phẩm của Nhị đang được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, các bảo tàng ở Paris, New York và Tokyo, cũng như các bộ sưu tập tư nhân trong và ngoài nước. Ông đã tham gia các cuộc triển lãm mỹ thuật ở Việt Nam và nước ngoài từ năm 1936.
Trong thời gian học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, họa sĩ Lương Xuân Nhị đã đoạt huy chương bạc năm 1935, huy chương vàng năm 1936 và giải thưởng cao quý năm 1937 do Hiệp hội kích thích mỹ thuật Đông Dương cấp.
Năm 1938, bức tranh lụa Phòng trà của họa sĩ Lương Xuân Nhị đã được Bảo tàng New York thu mua cho thấy và khẳng định tài năng của ông đã vươn tầm với thế giới.
Ông là giảng viên Trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội từ năm 1955 đến năm 1981; là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam từ năm 1957 đến năm 1989.
Ông nhận danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân năm 1990 và giải thưởng Văn học nghệ thuật cấp Nhà nước năm 2001 vì những đóng góp cho nền mỹ thuật dân tộc. Tên của ông cũng được ghi trong từ điển bách khoa Việt Nam.
Tác Phẩm Tranh Của Hoạ Sĩ Lương Xuân Nhị
“Tôi đã học được rất nhiều điều từ cuộc sống, con người và thiên nhiên đất nước. Tôi tìm thấy quy luật trong cấu trúc núi, sông, thực vật và đồng ruộng. Tôi tìm thấy cảm xúc của mình trong màu sắc của thiên nhiên. Bức tranh của tôi sống cùng với cuộc sống và “Vẻ đẹp của dân tộc”, ông Nhị cho biết tại lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 vào năm 2003, với ước nguyện sinh nhật là có thể đạp xe như những ngày xưa để tìm được những cảm hứng riêng biệt trong sáng tác.
Lương Xuân Nhị là người tiên phong đưa tranh sơn dầu về Việt Nam. Những bức tranh sơn dầu và tranh lụa của ông đều thấm đẫm tinh thần phương Đông.
Ông cho biết: “Tôi (họa sĩ Việt Nam) đã học cách vẽ, mô tả hình khối, ánh sáng và màu sắc theo thực tế trước mắt từ phương Tây khi học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nghệ thuật phương Đông đã loại bỏ các chi tiết và chỉ mô tả hình khối và màu sắc theo góc nhìn cá nhân của họa sĩ. Ghi lại tinh thần của phong cảnh và con người. ”
Họa sĩ Lương Xuân Nhị rất thích sự hòa quyện của màu xanh trong thiên nhiên và ông muốn đưa nó vào những bức tranh phong cảnh nông thôn của mình. Do đó, ông được gọi là họa sĩ màu xanh. Do thành công trong việc vẽ thiếu nữ, ông còn được biết đến như một họa sĩ của sắc đẹp. Ông còn lưu giữ những bức chân dung đẹp nhất của mình về các thiếu nữ. Khi ông đang vẽ, nhiều người đã xem; sau đó, họ mua tranh của ông ngay sau khi ông hoàn thành chúng. Đó là vì người mua rất ngưỡng mộ nét thanh lịch, dịu dàng của người phụ nữ Việt Nam qua những nét vẽ của ông.
Những tác phẩm đầu tay của ông chứa đựng vô số hình ảnh về rất nhiều người phụ nữ kiếm sống trên đường phố. Ông cũng đã cho ra đời hàng trăm bức tranh vẽ nghệ thuật về vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Hà Nội.
Trong quá trình sáng tác những tác phẩm tranh nghệ thuật thành công của mình Lương Xuân Nhị để lại được rất nhiều tác phẩm mang lại giá trị lớn. Những tác phẩm đã gây tiếng vang lớn của ông phải kể đến các bức tranh lụa như “Nghỉ chân bên bờ suối” (1936), “Quán nước bên đường” (1937), “Gia đình thuyền chài” (1938), “Cô gái với nón bài thơ” (1940),… hay những bức tranh sơn dầu như “Khóm tre bên cầu” (1938), “Đồi cọ” (1957)…